Cấu trúc lực lượng theo học thuyết Tác chiến chiều sâu

Xe tăng, bộ binh cơ giới hoá và máy bay hiện diện trong những trước tác của Triandafillov như là các "binh chủng tương lai". Ông không kịp nhìn thấy chúng trở thành hiện thực khi mất năm 1931, để lại vai trò chính trong công cuộc quy chuẩn hoá và cơ giới hoá "Tác chiến chiều sâu" cho Tukhachevsky.

Là người chia sẻ bức tranh chiến trường với Triandafillov, Tukhachevsky đã hai lần vận động cho việc tái vũ trang Hồng quân. Ở lần thứ nhất thất bại vào năm 1928, ông phải trả giá bằng việc bị huyền chức Tổng Tham mưu trưởng[38]. Đến lần thứ 2 vào năm 1931, khi Liên Xô đã cơ bản hoàn thành hiện đại hoá công nghiệp, ông mới thành công và được bổ nhiệm Phó Dân uỷ Quốc phòng kiêm Cục trưởng Cục Vũ khí và Trang bị. Ở cương vị này, ông đã cùng với một số đồng sự khác, đáng kể là G. S. Isserson[Ct 7], hoàn thiện các khía cạnh khác của học thuyết, đặc biệt là vai trò và tổ chức của các lực lượng để đúc kết vào bản Điều lệ Tác chiến 1936.

Vai trò và tổ chức của lực lượng xe tăng - cơ giới hoá

Hai thê đội của lực lượng xung kích không nằm ngoài quan điểm hợp thành vũ khí truyền thống của Hồng quân, do đó xe tăng được đưa vào cấu trúc tác chiến của cả hai. Ở thê đội thứ nhất, xe tăng hỗ trợ bộ binh tiến quân dưới sự hỗ trợ của hoả lực pháo. Ở thê đội thứ hai, xe tăng làm nòng cốt trong mũi vận động thọc sâu, được hỗ trợ bởi bộ binh được chở theo bằng xe thiết giáp hoặc xe tải. Cả hai vai trò này của xe tăng được thử nghiệm trong giai đoạn 1930-1932 và các bài bản phối hợp được tổng kết thành "Hướng dẫn tạm thời về Tổ chức Tác chiến chiều sâu" năm 1933[40] và quy chuẩn hoá trong Điều lệ 1936[Ct 8].

Để phục vụ cho cả hai vai trò này, một mặt xe tăng được tổ chức biên chế cơ hữu vào các Tập đoàn quân hợp thành, một mặt khác được tổ chức thành các Quân đoàn cơ giới hoá độc lập - trong đó xe tăng được hỗ trợ bởi bộ binh cơ giới hoá và pháo tự hành. Ngoài ra, xe tăng còn được biên chế vào các đơn vị kỵ binh - một binh chủng truyền thống của Hồng quân[Ct 9] - để có thể sử dụng binh chủng này trong vai trò hỗ trợ lực lượng cơ giới hoá vận động thọc sâu[43].

Vai trò và tổ chức của không quân

Khác hẳn với quan điểm cùng thời ở các nước Phương Tây vốn có xu hướng xem Không quân là một lực lượng độc lập, thì xuất phát từ đặc điểm lãnh thổ rộng lớn mà Lục quân là lực lượng bảo vệ chủ đạo, nên Hồng quân đặt Không quân vào vai trò hỗ trợ. Trong bức tranh chiến thuật của học thuyết, Không quân có vai trò quan trọng: hỗ trợ hoả lực cho thê đội thọc sâu khi lực lượng này đã vận động ra khỏi tầm pháo; ngăn chặn không cho đối phương vận động đến bịt cửa đột phá hoặc chặn đường tiến của thê đội thọc sâu và cuối cùng là chiếm ưu thế trên không để bảo vệ cho các lực lượng mặt đất[44]. Tất cả các nhiệm vụ đều được yêu cầu thực hiện với lực lượng tập trung ở mật độ áp đảo dọc theo trục vận động chiến dịch.

Cùng với tiến bộ kỹ thuật hàng không, khi Liên Xô bắt đầu sản xuất được máy bay ném bom lớn hơn, bay xa hơn, thì khả năng sử dụng Không quân cho các hoạt động tấn công cơ sở công nghiệp của đối phương[Ct 10] được cân nhắc. Vì thế, Ðiều lệ 1936 công nhận Không quân có thể tiến hành các chiến dịch độc lập[46]. Ðiều này dẫn tới cấu trúc của lực lượng Không quân được chia làm 2: một phần được phối thuộc cho các đơn vị chiến dịch và một phần trù bị thuộc quyền điều động của STAVKA. Lực lượng này cũng có thể được sử dụng để tăng cường cho những hướng quan trọng[46].

Vai trò và tổ chức của binh chủng dù

Trong thời gian giữ trách nhiệm Tư lệnh Quân khu Leningrad 1928-1931, Tukhachevsky bắt đầu thử nghiệm về lực lượng nhảy dù. Thành công trong các vấn đề như tập hợp sau khi đáp và hiệp đồng với lực lượng vận động chiến dịch xác nhận vai trò của binh chủng dù trong học thuyết là "tận dụng cơ hội, bất ngờ tấn công các mục tiêu quan trọng như chỉ huy sở, trung tâm thông tin, hậu cần, đường giao thông của đối phương dọc theo trục hành tiến của lực lượng thọc sâu, nhằm gây tê liệt hệ thống chỉ huy hoặc chặn đường rút của đối phương"[47].

Việc thả dù thành công pháo và xe cơ giới hạng nhẹ ở những thử nghiệm thời kỳ 1935- 1936 dẫn tới khả năng cơ giới hoá binh chủng dù, thay vì bộ binh nhẹ có hoả lực và khả năng cơ động thấp. Vì thế, binh chủng dù được tổ chức thành các Lữ đoàn Đặc nhiệm Tấn công đường không biên chế vào các Phương diện quân, để sử dụng phối hợp với lực lượng chiến dịch. Ngoài ra, một số đơn vị cấp thấp hơn, trang bị nhẹ cũng được tổ chức với vai trò đổ bộ tấn công các mục tiêu trong khu vực chiến thuật của phòng tuyến đối phương[47].

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Tác chiến chiều sâu http://www.militaryhistoryonline.com/wwii/articles... http://www.calvin.edu/academic/cas/gpa/goeb36.htm http://www.cgsc.edu/carl/resources/csi/House/House... http://www.cgsc.edu/carl/resources/csi/glantz3/gla... http://www.au.af.mil/au/awc/awcgate/opart/opart_nw... http://www.carlisle.army.mil/USAWC/Parameters/Arti... http://www.carlisle.army.mil/USAWC/Parameters/Arti... http://www.carlisle.army.mil/usawc/Parameters/1985... http://www.history.army.mil/books/OpArt/index.htm#... http://www.dtic.mil/cgi-bin/GetTRDoc?AD=ADA416926&...